Chế độ cụ thể Nữ_quan

Trung Quốc

Quy chế về Nữ quan ở Trung Quốc rất rõ ràng, thời nhà Chu về cơ bản đã đặt định tương đối cụ thể trong Lễ ký, nhưng tương đối còn nhập nhằng với phi tần, điều này kéo dài đến nhà Hán. Thời Lưu Tống, Lưu Tống Minh Đế bắt đầu nghĩ đến "Nội chức" (內職), đặt định nhiều chức vụ trong Hậu phòng, đứng đầu là 「Hậu cung Thông doãn; 後宮通尹」, tuy nhiên chưa rõ rằng chỉ có Nữ quan, mà là Nữ quan cùng Hoạn quan đồng thời đảm nhiệm[8].

Thời Bắc Ngụy, căn cứ Ngụy thư ghi lại, hậu cung có 「Nội ty; 內司」, đều dựa vào cơ quan Thượng thư lệnh để thiết đặt[9]. Dựa vào tên chức vụ thì vẫn là tình trạng Nữ quan cùng Hoạn quan đồng thời đảm nhiệm, bao gồm:

  • Tác ty (作司), Đại giám (大監), Nữ thị trung (女侍中), 3 chức vụ, đều hàm Chính nhị phẩm;
  • Giám (監), Nữ thượng thư (女尚書), Mỹ nhân (美人), Nữ sử (女史), Nữ hiền nhân (女賢人), Thư sử (書史), Thư nữ (書女), Tiểu thư nữ (小書女), đều vị Tam phẩm;
  • Trung tài nhân (中才人), Cung nhân (供人), Trung sử (中使), Nữ sinh tài nhân (女生才人), Cung sử cung nhân (恭使宮人), đều vị Tứ phẩm;
  • Xuân y (春衣), Nữ tửu (女酒), Nữ hưởng (女饗), Nữ thực (女食), Hề quan nữ nô (奚官女奴), đều vị Ngũ phẩm.

Thời kỳ nhà Tùy, hậu cung phản chiếu Lục bộ mà thiết lập 「Lục cục; 六局」[10]. Sau khi nhà Đường thành lập, tiếp tục dựa theo chế độ nhà Tùy mà hoàn thiện, về sau ảnh hưởng sâu rộng, là hình mẫu chế độ Nữ quan mà Tống-Minh noi theo. Trong Lục cục, đứng đầu là Lục thượng (六尚), tương tự Thượng thư, đều là Chính ngũ phẩm. Trong mỗi cục lại có 4 cơ quan là Ty (司), chức quan đều lấy tên cơ quan, hàm Chính lục phẩm. Giúp việc cho mỗi Ty là Điển (典), hàm Chính thất phẩm và Chưởng (掌), hàm Chính bát phẩm. Tên các Điển và Chưởng đều gọi theo tên của Ty, có tổng cộng 24 Ty, tức 「Nhị thập tứ Ty; 二十四司」. Trong các Ty, ngoài Điển và Chưởng, còn có các Nữ sử (女史) giúp việc, số lượng từ 2 người đến 10 người tùy yêu cầu của từng cơ quan, đều không vào phẩm trật.

Lục cục Nữ quan, căn cứ Cựu Đường thư[11] cùng Tân Đường thư[12] ghi lại:

  • Thượng cung cục (尚宮局): nắm giữ mọi việc của Lục cục. Phàm khi các cơ quan Lục cục xuất nạp văn tịch đều phải thông qua Thượng cung cục này. Cơ cấu gồm:
    • Ty kí (司記), khi trong cung đưa văn bản ra vào, đều phải do Thượng cung ấn dấu lên để xét duyệt, Ty ký giúp bảo quản ấn;
    • Ty ngôn (司言), phụ trách việc truyền lệnh khải tấu;
    • Ty bộ (司簿), người trong cung ra vào thì Ty bộ sẽ viết lại ngày tháng, đồng thời lên danh sách việc ban phát lương bổng cùng tặng thưởng cho cung nhân;
    • Ty vi (司闈), phụ trách việc khóa cài các cổng cung cấm;
  • Thượng nghi cục (尚儀局): nắm giữ lễ nghi, dẫn dắt cho Hoàng hậu. Cơ cấu gồm:
    • Ty tịch (司籍), quản lý 4 bộ kinh sách cùng bút viết bàn kỷ;
    • Ty nhạc (司樂), có trách nhiệm hướng dẫn đám Nhạc kỹ Nhạc nhân luyện chuyện đàn hát và kỹ thuật ca múa đánh trống;
    • Ty tân (司賓), quản việc tiếp đãi khách khứa khi có triều kiến, yến hội hoặc thưởng tứ;
    • Ty tán (司贊), có nhiệm vụ giúp đỡ chuyện sắp xếp yến hội;
  • Thượng phục cục (尚服局): quản lý các đồ đạc như lễ phục, lễ khí, thang mộc của Hoàng đế. Cơ cấu gồm:
    • Ty bảo (司寶), nắm giữ vật bảo như ngọc khắc ngự phù cùng họa phẩm;
    • Ty y (司衣), bảo quản áo và phục sức riêng cho Hoàng đế;
    • Ty sức (司飾), lưu trữ các loại thuốc chăm sóc tóc như cao mộc cùng khăn lược;
    • Ty trượng (司仗), bảo quản Nghi trượng Nghi vệ dùng cho xuất hành;
  • Thượng thực cục (尚食局): phụ trách nếm trước các loại Ngự thiện, ngoài ra còn quản lý rượu chè và Y dược của Hoàng đế. Cơ cấu gồm:
    • Ty thiện (司膳), đảm việc nấu nướng;
    • Ty uấn (司醞), bảo lưu các loại rượu ngon rượu ngọt và đồ uống;
    • Ty dược (司藥), bảo quản các loại thuốc thang;
    • Ty xí (司饎), nắm việc cung cấp cho Cung nhân các hạng lương thực, cơm nước cùng củi than;
  • Thượng tẩm cục (尚寢局): quản lý thiết đặt Tẩm cung Hoàng đế mỗi khi ngự giá ở cung nào, đồng thời giám sát việc Hậu phi hầu tẩm. Cơ cấu gồm:
    • Ty thiết (司設), coi sóc màn trướng đệm chiếu cùng việc quét tước bày biện;
    • Ty dư (司輿), nắm các loại cờ quạt kiệu xe;
    • Ty uyển (司苑), quản hạt giống gieo trồng cùng các loại rau quả;
    • Ty đăng (司燈), tất quản đèn đóm đuốc nến;
  • Thượng công cục (尚功局): quản lý các vấn đề về nữ công, sửa chữa và tạo ra đồ đạc hoặc y phục. Cơ cấu gồm:
    • Ty chế (司制), quản việc cắt may Ngự phục;
    • Ty thải (司彩), quản Ấn bảo và thượng phẩm của Hoàng đế;
    • Ty trân (司珍), cất giữ các loại vải vóc gấm đoạn quý giá;
    • Ty kế (司計), quản việc chi tiêu y phục, ẩm thực cùng củi than;

Ngoài ra còn có các chức ngoài Lục cục như Cung chính (宮正) hàm Chính ngũ phẩm; Ty chính (司正) hàm Chính lục phẩm và Điển chính (典正) hàm Chính thất phẩm; có nhiệm vụ xử xét sai trái của Nữ quan và Cung nữ, phụ giúp có 4 Nữ sử. Bên cạnh đó, triều Đường còn có Văn Học quán (文學館), do các Nữ quan có học thức đảm nhiệm, sẽ được thăng làm Học sĩ (學士), phụ trách giảng dạy phi tần và cung nhân kiến thức.

Triều đại nhà Tốngnhà Minh, căn bản đều có Lục cục Nhất ty dựa theo mô hình của nhà Đường, chức trách không khác biệt lắm. Theo Minh sử, Minh Thái Tổ thiết lập Lục cục nhất Ty, Lục cục có: Thượng cung, Thượng nghi, Thượng phục, Thượng thực, Thượng tẩm và Thượng công. Nhất ty tức Cung chính, đều vị Chính ngũ phẩm. Mỗi cục có 4 Ty, và đều do Thượng cung quản lý toàn bộ, ngoài ra còn thiết đặt Nữ sử gồm 18 người, chức vụ căn bản đều như Đường[13]. Trong Thượng nghi cục đặt thêm chức Đồng sử (彤史), có 2 người, trật Chính lục phẩm, quản việc yết kiến tiến ngự, phàm Hậu phi quần Thiếp được triệu hạnh thì Đồng sử phụ trách ghi lại ngày tháng.

Minh Thái Tổ xuất phát từ mục đích "Cường hóa hoàng quyền", đối với chế độ Nữ quan cực kỳ coi trọng, tiến tới đem cái chế độ đồ sộ này nạp vào bên trong hệ thống quân chủ chuyên chế. Cơ cấu Nữ quan triều Minh, ngoại trừ tham khảo và hấp thu chế độ từ các triều trước, lại phỏng theo triều Đường mà tăng trí Cung chính ty, lại thêm thiết đặt các cấp Nữ sử cùng Đồng sử, công năng càng kiện toàn cùng hệ thống càng đồ sộ. Tham vọng này được Minh sử ghi nhận lại:

諸妃位號亦惟取賢、淑、莊、敬、惠、順、康、寧為稱,閨房雍肅,旨寓深遠。又命工部製紅牌,鐫戒諭后妃之詞,懸於宮中。牌用鐵,字飾以金。复著令典,自后妃以下至嬪御女史,鉅細衣食之費,金銀幣帛、器用百物之供,皆自尚宮取旨,牒內使監覆奏,移部臣取給焉。若尚宮不及奏,內使監不覆奏,而輒領於部者,論死。或以私書出外,罪亦如之。宮嬪以下有疾,醫者不得入宮,以證取藥。何其慎也!是以終明之代,宮壼肅清,論者謂其家法之善,超軼漢、唐。

.

Vị hiệu các Phi là trên dưới luận từ những chữ Hiền, Thục, Trang, Kính, Huệ, Thuận, Khang, Ninh để gọi. Chốn khuê phòng hòa hợp sung túc, nhưng chỉ được đặt ở nơi sâu lánh. Lại mệnh cho bộ Công làm Hồng bài, khắc vào lời huấn dụ dạy bảo đám Hậu phi, trịnh trọng treo lên ở trong các cung. Bài làm bằng sắt, mà chữ mạ vàng. Khôi phục lệnh điển từ trước, phàm Hậu phi trở xuống đến Tần ngự Nữ sử, hễ cần chi phí khổng lồ dùng cho y phục ăn uống, kim ngân lụa là cùng cung cấp đồ vật ra sao, đều từ Thượng cung lấy Chỉ, thông qua Nội sử giám phúc tấu, rồi từ đó đưa lên cho quan viên ở Bộ chính thức xuất kho. Nếu như Thượng cung không tấu, Nội sử giám phúc tấu, mà quan ở Bộ tự xuất kho, luận tội sẽ xử tử. Phàm dám đem thư riêng ra khỏi cung, tội cũng sẽ xử tử. Cung tần trở xuống có bệnh, Y nhân không được đưa vào cung, mà chỉ tự dựa theo chứng bệnh tự lấy thuốc.

Cẩn thận như vậy đó thay! Đến tận hết đời Minh, chốn cung vi thanh tịnh, tất đều dựa vào cung chế nghiêm ngặt mà hợp lý này đó thôi. Quả thật vượt qua Hán, Đường lắm.

— Trích từ "Hậu phi truyện nhất" trong Minh sử

Chế độ nhà Minh cũng theo nhà Đường, đều tuyển con nhà dân gian có học thức, gia cảnh trọng sạch để trực tiếp dùng lễ đưa vào cung. Gia đình của họ sẽ được miễn lao dịch, chi phí đi đường cũng do triều đình thu xếp. Ví dụ năm Hông Vũ thứ 5, tuyển phụ nữ hai phủ Tô Châu và Hàng Châu, được 44 người nguyện vào cung, thụ Nội chức, nên gia đình miễn lao dịch. Vào đời Hồng Vũ, đa phần tuyển chọn từ 30 tuổi trở lên, dưới 40 tuổi đều nhất thiết chưa chồng, nhưng nếu ở góa hay là ế thì vẫn được. Bên cạnh đó, tuyển Nữ quan và tuyển Cung nữ là hoàn toàn khác nhau, như Nữ quan cần thiết là phải biết đọc chữ cùng thông hiểu phép tính. Có thể nói, nhà họ có thể nghèo, nhưng đều phải có tri thức – yêu cầu tiên quyết để làm Nữ quan. Vào thời điểm nhà Minh cai trị, đa phần đều tuyển Nữ quan tại Giang Nam, do phụ nữ Hà Bắc phần nhiều đều không biết chữ nghĩa[14][15].

Vai trò của Nữ quan nhà Minh, cũng như Tống và Đường, đều tập trung ở việc sinh hoạt của Hoàng đế, do vậy sự ảnh hưởng của họ chủ yếu là lên Hoàng đế. Đời Minh Vũ Tông, vì cảm thấy Thượng tẩm cục quản rất nhiều chuyện, bao gồm trú tại cung nào, lâm hạnh Cung tần nào cũng đều phải qua tay Thượng tẩm cục, vì vậy bãi bỏ đi. Từ đó Vũ Tông mới có thể thoải mái trú tại bất kỳ đâu mình vừa ý, lâm hạnh Cung tần thì không cần phải chịu giám sát của một bộ phận các Nữ quan nữa[16]. Sự hưng thịnh của Nữ quan triều Minh dần suy thoái sau thời kỳ Vĩnh Lạc của Minh Thành Tổ, chức việc quan trọng của Nữ quan dần do Hoạn quan giám sát khống chế và chiếm lĩnh. Tốt cuộc đến cuối Minh, Nữ quan chỉ tồn tại trong 4 Ty của Thượng bảo ty (尚寶司) chuyên giữ Ấn chương Ngọc tỷ mà thôi[17].

Sang thời nhà Thanh, xử lý nội vụ đều do Nội vụ phủ cai quản, hệ thống Nữ quan tuy từng được đề cập trên văn bản thời Thuận Trị, song lại không có tiến hành, hay tiến hành không rõ ràng. Dẫu vậy, khái niệm Nữ quan vẫn tồn tại để chỉ các Ngoại mệnh phụ tham gia trong các dịp đại lễ.

Nhật Bản

Bài chi tiết: Hậu cung thập nhị tiŌoku

Cơ quan của các Nữ quan gọi là Hậu cung thập nhị ti (後宮十二司; こうきゅうじゅうにし), có nhiệm vụ hầu hạ Thiên hoàng và hoàng thất Nhật Bản, phân biệt mười hai ty gồm: Nội thị ty (内侍司), Tàng ty (藏司), Thư ty (書司), Dược ty (藥司), Binh ty (兵司), Xiển ty (闡司), Điện ty (殿司), Tảo ty (掃司), Thủy ty (水司), Thiện ty (膳司), Tửu ty (酒司), Phùng ty (縫司).

Trong đó, Nội thị ty (内侍司), còn gọi Thượng thị sở (尚侍所) là cơ quan dành cho các Nữ quan cao cấp, với nhiệm vụ gần như là một thư kí thân cận của Thiên hoàng. Do thân phận như vậy, đối với người đảm nhiệm đòi hỏi có trình độ cao về lễ nghĩa và kiến thức. Ngoài ra, chiếc gương Yata no Kagami (Bát Chỉ Kính; 八咫鏡), một trong Tam chủng thần khí do Nội thị ti phụ trách bảo quản. Nữ quan thuộc Nội thị ty gồm:

  • Thượng thị (ないしのかみ, 尚侍), hai người, hàm Tòng tam phẩm hoặc Tòng ngũ phẩm; trưởng quan phụ trách quản lý hậu cung thập nhị ty.
  • Điển thị (ないしのすけ, 典侍), bốn người, hàm Tòng tứ phẩm hoặc Tòng lục phẩm; Nữ quan phụ tá giúp việc cho Thượng thị.
  • Chưởng thị (ないしのじょう, 掌侍), hai người, hàm Tòng ngũ phẩm đến Tòng thất phẩm.
  • Nữ nhụ (にょじゅ, 女孺), giúp việc trong Ti, vô hạn định.

Còn ngoài ra, các Ti còn lại đều có một Thượng, hàm Tòng lục phẩm; hai người Điển, hàm Tòng bát phẩm và Nữ nhụ vô hạn định. Ngoài ra, còn có một số chức vụ khác, như:

  • Ngự Hạp điện Biệt đương (みくしげとののべっとう, 御匣殿別当), trưởng quan của Ngự Hạp điện (みくしげどの), trông nom việc phục sức của Thiên hoàng, thường do những nàng hầu được Thiên hoàng ân sủng đảm nhiệm.
  • Nữ tàng nhân (にょくろうど, 女蔵人).
  • Thái nữ (うねめ, 采女), thị tỳ hầu hạ trong hậu cung.

Thời kỳ Mạc phủ Tokugawa, nội cung thành Edo được biết đến với tên gọi Ōoku (Đại áo, おおおく, 大奥), một xã hội thu nhỏ tập hợp hơn một ngàn nữ nhân, được thành lập bởi Shōgun Hidetada. Từ người vợ chính thất tới các cung tần mỹ nữ, người hầu kẻ hạ trong Ōoku gọi chung là Áo nữ trung (おくじょちゅう, 奥女中), giữ nhiệm vụ phụng sự Tướng quân và gia tộc Tokugawa.

Những tổng quản hầu hạ gia đình Tướng quân có trách nhiệm quản lý các công việc lớn nhỏ trong Ōoku, giữa các tổng quản cũng phân chia thứ bậc:

  • Thượng lạp Ngự niên ký (上臈御年寄; じょうろうおとしよりJōrō Otoshiyori): xuất thân từ giới quý tộc tại kinh đô Kyoto, chịu trách nhiệm bảo trợ, cố vấn cũng như đảm nhiệm việc lễ nghi trong Ōoku. Mặc dù trên danh nghĩa, chức vụ này có quyền lực rất cao nhưng trên thực tế không có thực quyền nhiều bằng Tổng quản Ngự niên ký.
  • Ngự niên ký (御年寄; おとしよりOtoshiyori): xuất thân từ tầng lớp Samurai thượng cấp, người có quyền lực tối cao tại Ōoku, quản lý mọi thứ trong Ōoku.

Một số chức vị khác:

  • Ngự trung lạp (御中臈; おちゅうろうOchūrō): Nữ quan phục vụ Ngự đài sở và hay được tuyển chọn làm hầu thiếp cho Tướng quân.
  • Trung lạp (中臈; ちゅうろうChūrō): hầu cận Ngự đài sở, dự tuyển làm hầu thiếp của Shōgun.
  • Trung niên ký (中年寄; ちゅうどしよりChūdoshiyori): Nữ quan phụ tá của Ngự niên ký.
  • Ngự khách ứng đáp (御客應答, おきゃくあしらいOkyakuashirai): phụ trách tiếp đãi các nữ quyến thuộc các dòng nhánh Tokugawa của Shogun.
  • Ngụ phường chủ (御坊主; おぼうずObōzu): Nữ quan phụ trách chuẩn bị vật tùy thân cho Shogun, có thể đi lại giữa Đại Áo, Trung Áo và Biểu Gian.
  • Ngự đĩnh khẩu (御錠口; おじょうぐちOjōguchi): Nữ quan canh giữ cửa Ngự Linh lang hạ, là chính môn tại Ōoku.
  • Ngự tiểu tính (御小姓; おこしょうOkoshō): các thiếu nữ độ tuổi từ 7 tới 16 tuổi hầu cận Ngự đài sở.
  • Ngự thứ (御次; おつぎOtsugi): phụ trách quét dọn, di chuyển lễ phẩm, chuẩn bị bữa ăn và lưu trữ đồ vật của Shogun. An bài các tiết mục du nghệ khánh điển.
  • Biểu sử (表使; おもてづかいOmotezukai): giúp việc cho Ngự niên ký, phụ trách sở nhu vật phẩm của Ōoku.
  • Ngự hữu bút (御右筆; ごゆうひつGoyūhitsu): phụ trách văn thư, kiểm tra cống phẩm.
  • Thiết thủ thư (切手書; きってがきKittegaki): phụ trách ghi chép tình hình ra vào Ōoku.
  • Ngô phục chi gian (吳服之間; ごふくのまGofukunoma): phụ trách làm y phục cho cả Ōoku.
  • Ngự tam chi gian (御三之間; おさんのまO-sannoma): tạp dịch cho Ngự niên kí.

Việt Nam

Bài chi tiết: Hậu cung nhà Nguyễn

Trước triều đại nhà Nguyễn, lịch sử Việt Nam không có ghi chép cụ thể và chi tiết chức vụ cũng như cấp bậc của các Nữ quan, dù có ghi nhận một vài Nữ quan ưu tú. Sang thời Nguyễn, cứ theo Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ mới có ghi chép cụ thể, cứ theo đó thì ta biết rằng hệ thống Nữ quan và cung nữ được gọi là Lục thượng (六尚), tương đồng quy chế thời Đường. Người đứng đầu hệ thống này chính là các phi tần. Thời Thiệu Trị, Nghi Thiên Chương Hoàng hậu Phạm thị, khi ấy còn là Quý phi, đã được giao trọng trách cai quản viện Thượng nghi, cũng như Nhiếp quản lục thượng. Thời Tự Đức, Hoàng quý phi Vũ Thị Duyên cai quản Lục thượng. Sau vì việc quản lý của bà chưa được chu toàn, cung nhân tiến cơm trưa chậm làm trái ý vua nên bị giáng làm Trung phi, tước bỏ quyền cai quản Lục thượng.

Thời Đồng Khánh, Hoàng quý phi Nguyễn Hữu Thị Nhàn được ban kim bài chiều ngang khắc chữ “Đồng Khánh sắc tứ”, chiều dọc khắc chữ “Kiêm nhiếp lục viện”. Giai phi Phăn Văn thị cũng được phong làm Quyền nhiếp lục viện, cai quản lục viện cùng Hoàng quý phi. Còn Quán phi Trần Đăng thị, Chính tần Hồ Văn thị, Nghi tần Nguyễn Văn thị, Dự tần Trần Văn thị cũng được phân ra cai quản Lục thượng viện. Sau vì cư xử không đúng mực, Quán phi, Chính tần và Nghi tần bị giáng xuống làm Tùy tần, Mỹ nhân và Tài nhân cũng như mất quyền cai quản Lục thượng.

Năm Minh Mạng thứ 17 (1836), sau khi ban bố 9 bậc phi tần, Vua Thánh Tổ còn cho đặt Lục thượng ty (六尚司) do các phi tần kiêm chức Nữ quan đảm nhiệm, định rõ chức phận giữ nội chính cho được tề chỉnh, lúc này thứ tự có:

  • Thượng nghi (尚儀), giữ nghi lễ tiết văn.
  • Thượng trân (尚珍), giữ châu ngọc quý báu.
  • Thượng khí (尚器), giữ những đồ đạc quý.
  • Thượng phục (尚服), giữ chầu, nệm, giường, màn.
  • Thượng thực (尚食), giữ các loại bánh trái quà mọn.
  • Thượng y (尚衣), giữ việc áo xiêm.

Quản lý Lục thượng ty này lại chia làm các bậc Nữ quan, bao gồm:

  1. [Thủ đẳng; 首等], tức Bậc đầu, là chức Quản sự (管事) của Lục thượng, cùng Tư nghi (司儀) và Tư trân (司珍).
  2. [Thứ đẳng; 佽等], tức Bậc thứ, là chức Thống sự (統事) của Lục thượng, cùng Tư hương (司香) và Tư khí (司器).
  3. [Trung đẳng; 中等], tức Bậc giữa, là chức Thừa sự (承事) của Lục thượng, cùng Tư y (司衣) và Tư thảng (司帑).
  4. [Á đẳng; 亞等], tức Bậc á, là chức Tùy sự (隨事) của Lục thượng, cùng Quản ban (管班) của các ban.
  5. [Hạ đẳng; 下等], tức Bậc dưới, là chức Tòng sự (從事) của Lục thượng, cùng Lãnh ban (領班) của các ban.
  6. [Mạt đẳng; 末等], tức Bậc cuối, có chức Mục (目; tương đương Trưởng ban) của các ban và Cung nô Đầu mục (宮奴頭目).

Trong Hội điển cũng ghi lại, quản lý mọi việc là bậc Thủ đẳng, thâu tóm mọi việc là bậc Thứ đẳng, thừa hành mọi việc là bậc Trung đẳng, còn Á đẳng trở xuống là lệ thuộc trực tiếp trong phạm vi mỗi ban, các ban đều có lịch trình riêng phân biệt nhau, gồm 8 ban là: ban Thiều Quang, ban Thuỵ Nhật, ban Kim Hoa, ban Hương Cẩm, ban Tường Loan, ban Nghi Phượng, ban Tiên Quế và ban Ngọc Mai. Vào lúc này thì từ bậc Thủ đẳng đến bậc Hạ đẳng, khi sách phong đều ban cáo sắc bằng giấy Long tiên trục[18]. Bậc Mạt đẳng, do bộ Lễ tuyên sắc, và từ bậc Hạ đẳng trở lên nếu có thự hàm, thì cho các sắc chỉ tuyên phong đều dùng giấy Hội sao. Sau khi viết các trục cáo sắc cho Nữ quan, đều để vào trong hòm gỗ màu đỏ son, các quan bộ Lễ giao cho Cung giám (tức các quan thái giám), rồi từ Cung giám truyền cho Nữ quan ấy nhận lĩnh. Các Nữ quan kính nhận, để trên hương án, làm lễ 3 lần quỳ, 6 lần vái. Về sau nếu có cáo sắc nhận ơn, đều đến trước mặt Hoàng đế làm lễ 3 lạy 6 vái như trên. Khi bị giáng chức, thì do Cung giám trực tiếp truyền chỉ.

Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), Vua Hiến Tổ cho dụ đổi cách gọi Lục thượng ty thành Lục thượng viện (六尚院), lại cho đặt thêm các cơ quan nhỏ trong Lục thượng để cai quản tỉ mỉ và trực tiếp hơn so với khi trước. Hoàn thiện thêm chế độ Lục thượng gồm:

  • Thượng nghi (尚儀), coi việc giữ giấy tờ trong nội cung. Trong đó chia ra các bậc quản lý:
Bậc đầu gọi là Chưởng nghi (掌儀), Chưởng lễ (掌禮). Bậc thứ gọi là Tư hương (司香), Tư chương (司章). Bậc trung gọi là Điển thư (典事), Điển hàn (典翰).
  • Thượng diên (尚筵), đổi từ Thượng thực, hầu ngự thiện và phụng tiến các thức ăn. Trong đó chia ra các bậc quản lý:
Bậc đầu gọi là Chưởng diên (掌筵), Chưởng yến (掌宴). Bậc thứ gọi là Tư trà (司茶), Tư thiện (司膳). Bậc trung gọi là Điển soạn (典僎), Điển dao (典醪).
  • Thượng trân (尚珍), coi giữ ngọc châu, trân bảo. Trong đó chia ra các bậc quản lý:
Bậc đầu gọi là Chưởng châu (掌珠), Chưởng ngọc (掌玉). Bậc thứ gọi là Tư kim (司金), Tư ngân (司銀). Bậc trung gọi là Điển hoàn (典鍰), Điển mân (典緡).
  • Thượng y (尚衣), phụng hầu mũ áo và coi giữ xiêm y bốn mùa. Trong đó chia ra các bậc quản lý:
Bậc đầu gọi là Chưởng bào (掌袍), Chưởng cừu (掌裘). Bậc thứ gọi là Tư y (司衣), Tư phi (司緋). Bậc trung gọi là Điển nhu (典襦), Điển chẩn (典袗).
  • Thượng phục (尚服), coi việc màn trướng. Trong đó chia ra các bậc quản lý:
Bậc đầu gọi là Chưởng duy (掌帷), Chưởng vi (掌幃). Bậc thứ gọi là Chưởng thường (掌裳), Chưởng đới (掌帶). Bậc trung gọi là Điển khâm (典衾), Điển nhục (典褥).
  • Thượng thảng (尚帑), vốn là Thượng khí, coi giữ nội khố. Trong đó chia ra các bậc quản lý:
Bậc đầu gọi là Chưởng trân (掌珍), Chưởng ngoạn (掌玩). Bậc thứ gọi là Tư thảng (司帑), Tư khí (司器). Bậc trung gọi là Điển cẩm (典錦), Điển thái (典采).

Cũng trong năm Thiệu Trị thứ 3, cũng xuống dụ cho đổi tên một số cơ quan: Điển soạn của Thượng diên thành Điển tư (典司); Tư kim và Tư ngân của Thượng trân đổi thành Tư cung (司供), Tư trân (司珍); Điển hoàn cùng Điển mân cũng đổi thành Điển kim (典金), Điển ngân (典銀).

Triều Tiên

Bài chi tiết: Nội mệnh phụ

Các Nữ quan đều phục vụ gọi chung là Nội mệnh phụ. Đối với các hậu cung, được Quốc vương sủng hạnh và hạ sinh con cái sẽ được gọi là "Nội quan", còn các cung tì phục vụ mọi việc sẽ được gọi là "Cung quan". Các cấp bậc Cung quan được quy định rất chặt chẽ.

Hai vị trí cao nhất, thuộc hàm Chính ngũ phẩm là Thượng cung (尙宮, 상궁) và Thượng nghi (尙儀, 상의), họ là các Nữ quan phục vụ trực tiếp cho Vương thất. Một cung nữ ở lâu trong cung, giàu kinh nghiệm sẽ được chỉ định làm Thượng cung. Khi một cung nữ trẻ tuổi được Quốc vương sủng ái nhưng chưa sinh dục con cái, cũng đều được sắc phong làm Thượng cung. Khi đó họ đứng hàng cao nhất trong Chính ngũ phẩm, khác hẳn các Cung quan khác và được gọi là Thừa ân Thượng cung (承恩尙宮, 승은상궁). Tuy nhiên, Thừa Ân thượng cung không được tính vào Vương thất hay Nội quan. Mỗi Thừa ân Thượng cung sẽ được ban cho một Thượng cung khác để hầu hạ. Do tính chất này, họ còn được gọi là Đặc biệt Thượng cung (특별상궁; 特別尙宮).

Tuỳ theo vị trí và nhiệm vụ, giữa các Thượng cung với nhau sẽ có phân chia thứ bậc, ví dụ như:

Tên gọiPhiên âmChữ HangulChữ HánVai trò
Đề điều Thượng cungJejo sanggung제조상궁提調尙宮[19]Là Thượng cung có địa vị cao nhất trong số các Thượng cung, quản lý các Thượng cung cùng các cung nữ, có ảnh hưởng trong hậu cung. Họ phục vụ nhà vua với nhiều nội quan khác trong cung, nhận lệnh của nhà vua và có quyền lực chính trị.

Đề điều thượng cung chỉ có một người nhưng điều kiện để có thể trở thành Đề điều thượng cung phải là người xuất chúng nhất và thuộc nhóm những cung nữ thâm niên, có học vấn (thường là người thông thạo kinh thư) cũng như phải có năng lực lãnh đạo xứng tầm để có thể thống lĩnh chúng cung nữ. Nhiệm vụ của Đề điều thượng cung là nhận Ngự mệnh (어명,御命) của Đại điện và quản lý tài sản lớn nhỏ của Nội điện.

Có thể xem Đề điều thượng cung tương đương với Tể tướng ở tiền triều.

Phó Đề điều Thượng cungBujejo sanggung부제조상궁副提調尙宮Cũng được gọi là A lý khố Thượng cung (Arigo sanggung, 阿里庫尙宮), phụ trách quản lý công khố của hậu cung, là người chỉ xếp sau Đề điều thượng cung. A lí khố là khố phòng ở Nội điện, ở trong đây có chứa những tài sản quý giá được ghi vào danh mục tài sản cá nhân của Đại vương. Những tài sản quý giá gắn liền với ăn – mặc – ở như chén bạc, vật dụng bằng sắt và đồ đồng cùng với các loại vải nhiều màu có khảm đá quý. Tất cả những vật dụng này khi lấy ra và trả lại đều phải qua tay của A lí khố thượng cung.
Chí mật Thượng cungJimil sanggung지밀상궁至密尙宮Cũng được gọi là Đãi lệnh Thượng cung (Daeryeong sanggung, 待令尙宮), phụ trách việc hầu hạ thân cận với nhà vua và Vương phi cùng Vương đại phi, không bao giờ rời bước, cho nên họ mới được gọi là "Đãi lệnh", có nghĩa là chờ đọi mệnh lệnh.
Bảo mẫu Thượng cungBomo sanggung보모상궁保姆尙宮Họ có nhiệm vụ chăm sóc các Vương tử và Vương nữ. Theo đó ở Đông cung sẽ có hai người, còn Vương tử và Vương nữ ở những nơi khác thì mỗi nơi một người. Vương tử và Vương nữ khi còn nhỏ sẽ gọi những Bảo mẫu thượng cung này là A chỉ (아지,阿只).
Thị nữ Thượng cungSinyeo sanggung시녀상궁侍女尙宮Họ có nhiều nhiệm vụ rải rác trong khắp Nội viện, nhưng nhìn chung thường ngày sẽ làm việc ở những nơi phòng Chí mật.

Thị nữ thượng cung đảm nhiệm việc quản lý thư tịch, tuyên đọc các loại sách quan trọng trong các ngày lễ tiết. Những người viết chữ đẹp thì đảm nhận viết sách và phụ trách tấu thỉnh những việc khác. Còn trong các buổi tiệc lớn nhỏ sẽ được chia ra làm Thị nữ thượng cung phục vụ yến tiệc, Thị nữ thượng cung dâng thiện thực và Thị nữ thượng cung dâng rượu. Ngoài việc quản lý những vật dụng khác như chén bát thì Thị nữ thượng cung còn quản lý các từ đường và cũng chịu trách nhiệm khóc tang.

Cuối cùng, Thị nữ thượng cung như là một Đặc sứ của Đại vương và Vương phi khi nhà mẹ của Vương phi có chuyện lớn thì nhận ngự mệnh rồi đến đó giải quyết.

Giám sát Thượng cungGamchal sanggung감찰상궁監察尙宮[20]Họ có nhiệm vụ đánh giá và trừng phạt các cung nữ. Đối tượng giám sát thường là những cung nữ trẻ tuổi và các cung nữ tập sự mà không tính những Thượng cung thâm niên.

Các hình phạt nhẹ thì có thể bị xử bóp chân và nặng có thể bị lưu đày. Những người sống trong cung đều là các gia đình độc lập nên ở mỗi cung điện đều được bố trí hai Giám sát.

Nhất ban Thượng cungIlban sanggung일반상궁一般尙宮Đây là những người chưa được ban chức danh như những Thượng cung trên. Thường thì ở mỗi bộ phận sẽ có 7 đến 8 người nên họ có trách nhiệm quản lý những Nội nhân thuộc cấp và đảm nhiệm tất cả công nhận ở bộ phận sở thuộc.

Châu Âu

Chế độ "Lady-in-waiting" của Châu Âu phức tạp hay đơn giản cũng tùy quốc gia. Triều đình Vương quốc Liên hiệp Anh hiện tại có các phân bậc được hình thành cơ bản từ thời kỳ nhà Tudor là:

  • Mistress of the Robes: đứng đầu các Lady-in-waiting chính thức của vương thất. Phụ trách lưu giữ trang sức và quần áo của Nữ vương và Vương hậu. Công chúa không thể có Lady-in-waiting đạt danh vị này.
  • First Lady of the Bedchamber: đứng đầu nhóm Lady-in-waiting được gọi là Ladies of the Bedchamber. Xuất thân của họ đều phải là nữ quyến trong một gia đình đại quý tộc, là vợ hoặc góa phụ của Bá tước trở lên. Đây là những Lady-in-waiting cấp cao nhất mà các Công chúa có thể có được.
  • Woman of the Bedchamber: một nhóm Lady-in-waiting. Xuất thân đều phải là con gái của quý tộc được gọi là [Peer] - tức những người có tước vị chính thức.
  • Maid of Honour: trong tiếng Anh thì danh từ "Maid" đều chỉ đến các thiếu nữ trẻ và chưa chồng, do đó họ đa phần đều là tiểu thư mới vào. Xuất thân của họ thông thường không quá cao, và được hưởng kính xưng 「The Honourable」 đến hết đời. Hiện tại, họ chỉ được bổ nhiệm trong lễ đăng quang.

Thời Trung cổ ở nước Anh lần đầu ghi nhận Vương hậu Margaret đem từ Pháp qua 7 người, 3 trong đó đã kết hôn sẽ được gọi là "Domina", còn 4 người chưa kết hôn là "Maid of Honour", chưa thấy những cấp bậc đứng đầu. Đến khi Elizabeth xứ York xuất hiện, căn cứ theo ghi chép của Sứ thần Tây Ban Nha là Rodrigo de Puebla, thì Elizabeth có 32 người, trong đó 18 người là quý tộc, gọi là "Gentlewomen", 7 người là "Maid of Honour" và 3 người là "Chamberers Women"[21]. Việc có nhiều người như vậy, ngoại trừ "Lady-in-waiting" của riêng Elizabeth, còn có "Lady-in-waiting" của con gái bà, thậm chí là thân phận "Lady-in-waiting" của các "Lady-in-waiting" của bà. Về lý thuyết, bọn họ đều là đoàn tùy tùng của riêng Vương hậu. Thời kỳ nhà Tudor, phận sự của các "Lady-in-waiting" chính là túc trực bên cạnh Vương hậu, giúp đỡ về giao tiếp cũng như cả vấn đề cá nhân, có thể ví như "triều đình nhỏ" của Vương hậu. Địa vị của họ tùy thuộc vào gia thế và tước hiệu của gia tộc. Nếu vị Vương hậu không phải từ nước ngoài, thông thường họ hàng của họ sẽ được bổ nhiệm vị trí thân cận, như Lady Margaret Lee là "Lady of the Privy Chamber" cho Anne Boleyn hoặc Elizabeth Seymour, Lady Cromwell phục vụ cho Jane Seymour.

Triều đình Công quốc Burgundy là nền tảng phức tạp hóa nhất trong các nước Châu Âu, đặc biệt là hình mẫu chung cho triều đình các nước Áo, Đức, Đan Mạch, Thụy ĐiểnNga. Các danh xưng chung của những triều đình này có thể có:

  • Hofmeesteres, Obersthofmeisterin hoặc Overhofmesterinde: có nghĩa "Court Mistress" hay "Grand Mistress" trong tiếng Anh, đúng như tên gọi biểu thị cho Thị tùng đứng đầu toàn bộ Nữ Thị tùng của triều đình, tương tự "Đề điều Thượng cung" của Triều Tiên và "Mistress of the Robes" của Anh.
  • Hofdame, Mere de filles hoặc Kammerfräulein: tương đương "Maid of the Bedchamber" trong tiếng Anh. Địa vị chỉ đứng sau "Court Mistress" và có nhiệm vụ cai quản các Thị nữ được gọi là Demoiselle d'honneur hoặc Hoffräulein - tương đương "Maid of Honour" trong tiếng Anh. Nhóm địa vị này có đặc điểm chung là đều còn trẻ và chưa có gia đình, sau khi kết hôn thì đều từ bỏ chức vụ.
  • Kameniersters: đứng cuối cùng, phục vụ trong phòng của Nữ chủ nhân, rất tương đồng nữ phục vụ và có địa vị khá xa so với những chức vụ trên, bởi vì những chức vụ bên trên đều là quý tộc, trong khi Kameniersters không cần thiết phải là quý tộc. Tương đương "Woman of the Bedchamber" trong tiếng Anh.

Chế độ Vương quốc Pháp chia ra tương đối phức tạp:

  • Surintendante de la Maison de la Reine: tức "Người giám thị của Vương hậu", tương đương "Mistress of the Robes" của Anh, địa vị cao nhất trong các Thị nữ cung đình. Khi nhậm chức, họ phải tuyên thệ lời thề trung thành với Quốc vương mà không phải Vương hậu.
  • Gouvernante des enfants royaux: địa vị cao đồng nhất với "Surintendante", nhiệm vụ như là Phó mẫu - chịu trách nhiệm giáo dục các Vương tử cùng Vương nữ của vương triều. Khi nhậm chức, họ phải tuyên thệ lời thề trung thành với Quốc vương mà không phải Vương hậu.
  • Première dame d'honneur: đứng sau chức vụ "Surintendante", thậm chí thay thế chức vụ này trong nhiều việc, bao gồm quản lý nhân số Thị nữ cho Vương hậu và các vấn đề hằng ngày của Vương hậu. Trước khi "Surintendante" được tạo ra vào năm 1619 thì các "Première" trong thời gian dài được xem là chức vụ cao cấp nhất của các Thị nữ.
  • Dame d'atour: giám sát chìa khóa tủ đồ quần áo của Vương hậu.
  • Dame d'honneur: các Thị nữ đã có gia đình, nhiệm vụ là bầu bạn Vương hậu trong phòng riêng hoặc tùy hầu Vương hậu tham dự yến tiệc. Năm 1614 bị bãi bỏ, thay thế bởi các Dame du Palais với chức trách tương tự.
  • Demoiselles d'honneur: các Thị nữ chưa có gia đình, đều là con gái quý tộc. Chức trách tùy hầu tương tự các "Dame", song mục đích của họ là để tập làm quen xã hội và tìm hôn phối phù hợp. Họ bị giám sát chặt bởi các "Gouvernante de filles" chuyên việc giáo dục. Bị bãi bỏ vào năm 1674.
  • Première femme de Chambre: đứng đầu các Femme de Chambres cùng Lavandières, chuyên phục vụ các việc khác trong phòng riêng của Vương hậu. Một "Première femme de Chambre" có chìa khóa phòng của Vương hậu, thậm chí có quyền từ chối các yêu cầu diện kiến Vương hậu. Trong một thời gian, chức vụ này có sức ảnh hưởng lớn trong triều đình Pháp.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nữ_quan http://www.encyber.com/search_w/ctdetail.php?maste... http://100.nate.com/dicsearch/pentry.html?s=K&i=25... http://sankhau.com.vn/news/lich-su-va-dac-diem-ngh... http://phunutoday.vn/blog-nguoi-noi-tieng/tham-cun... https://erenow.net/biographies/elizabethofyork/15.... https://ctext.org/wiki.pl?if=gb&chapter=780426 https://zh.wikisource.org/wiki/%E5%AE%8B%E6%9B%B8/... https://zh.wikisource.org/wiki/%E6%96%B0%E5%94%90%... https://zh.wikisource.org/wiki/%E8%88%8A%E5%94%90%...